Khi nhắc đến Vodafone, hãng viễn thông Anh, nhiều chuyên gia thường nhắc đến một câu nói phổ biến từ thời nước Anh thực dân: “Mặt trời không bao giờ lặn đối với Vodafone”.
Ra đời
Nếu xét về tổng số thuê bao, Vodafone chỉ chịu đứng sau China Mobile – hãng di động Trung Quốc, đất nước đông dân nhất thế giới nhưng nếu xét về mức doanh thu và lợi nhuận, các đối thủ khác sẽ còn phải mất rất nhiều năm nữa mới có thể đuổi kịp Vodafone.
Chỉ cần tính đến tháng 1/2007, Vodafone đã trở thành hãng di động có giá trị khoảng 71,2 tỷ bảng Anh và hiện diện tại 31 quốc gia trải khắp các châu lục, là “mạng đối tác” của 40 quốc gia khác và có khoảng 427 triệu thuê bao và 79.000 nhân viên (số liệu tính đến tháng 11/2009).
Ra đời tại Newbury, Berkshire nước Anh từ năm 1982 sau khi liên doanh giữa hãng điện tử Racal Electronics và hãng truyền thông Racal Strategic Radio thắng thầu để giành được một trong 2 giấy phép xây dựng mạng điện thoại vô tuyến của nước Anh.
Tuy là “con đẻ” của liên doanh Racal nhưng mạng di động này lại có cái tên khá lạ: Vodafone - nhưng chính cái tên này đã góp phần định hình một cách tương đối chính xác diện mạo của ngành công nghiệp di động thế giới ngày nay. Trong cái tên này, chữ VO đại diện cho từ “VOICE” (tiếng nói, âm thanh), DA rút gọn từ chữ “DATA” (dữ liệu) với tham vọng của các nhà lãnh đạo hãng là sẽ xây dựng được một mạng viễn thông vô tuyến có khả năng truyền tải cả tiếng nói và dữ liệu “nối dài” khả năng của con người.
Ngày 1/9/1988, Vodafone được tách ra và đổi tên thành Racal Telecom nhưng đến ngày 16/9/1991, Racal Telecom lại được sáp nhập trở lại Racal Electronics và trở thành tập đoàn viễn thông di động Vodafone Group.
Kể từ đó, đế chế di động này bắt đầu hành trình chinh phục khắp thế giới của mình.
Nếu nhìn vào “con đường trở thành khổng lồ” của Vodafone, người ta thường nhận ra một điều rằng các đế chế công nghệ thường có cách đi khá giống nhau: Nuốt chửng hay thôn tính một phần đối thủ. Trong thập niên 90, Vodafone chú tâm đến việc trở nên hùng mạnh ngay tại nước Anh. Tháng 7/1996, Vodafone mua lại 2/3 cổ phần của hãng viễn thông Talkland (trước đó họ đã nắm 1/3) với giá 30,6 triệu bảng. Mấy tháng sau, ngày 19/11/1996, Vodafone mua lại hãng phân phối điện thoại Peoples Phone với giá 77 triệu bảng để nắm trong tay toàn bộ chuỗi 181 cửa hàng chuyên phục vụ những khách hàng đang dùng mạng của Vodafone. Bằng cách tương tự, Vodafone cũng thâu tóm thành công 80% số cổ phần còn lại của hãng Astec Communications.
Chinh phục châu Âu
Sau khi hoàn chỉnh bộ nhận diện thương hiệu, Vodafone bắt đầu con đường chinh chiến nước ngoài của mình bằng việc vươn ra các thị trường lân cận tại châu Âu. Giai đoạn cuối những năm 90 và đầu những năm 2000, Vodafone có một loạt những thương vụ thôn tính quan trọng.
Tháng 11/1999, Vodafone đề nghị mua lại toàn bộ Mannesmann nhưng bị ban lãnh đạo hãng này từ chối thẳng thừng. Cũng trong năm đó, Mannesman mua lại bộ phận viễn thông di động của Orange – một nhà mạng Anh khác. Vụ mua bán này đưa Vodafone và Mannesman trở thành “kẻ thù” của nhau khi ban lãnh đạo Vodafone tố cáo Mannesmann vi phạm “thoả thuận lịch sự”, tức không cạnh tranh trực tiếp trên sân nhà của nhau.
Ngày 3/2/2000, sau rất nhiều lần cự tuyệt, ban lãnh đạo của Mannesmann đã không thể cưỡng lại sức quyến rũ của lời đề nghị đã được Vodafone tăng lên 112 tỷ bảng Anh. Tháng
4/2000, EU chính thức phê chuẩn thương vụ này.
Không chỉ liên tiếp thâu tóm và bành trướng, Vodafone còn rất mạnh tay trong các dự án đầu tư cho công nghệ mới. Ngày 16/4/2001, Vodafone đã trở thành hãng di động đầu tiên của châu Âu thực hiện thành công cuộc gọi trên mạng 3G tại Anh.
Không hiểu là đã “mỏi” với những vụ thâu tóm hay muốn đẩy nhanh hơn nữa tốc độ bành trướng ra khắp thế giới, Vodafone lần đầu tiên giới thiệu với thế giới khái niệm hoàn toàn mới trên lĩnh vực viễn thông: “Mạng đối tác”. Ngày 17/12/2001, Vodafone ký hợp đồng hợp tác với nhà mạng TDC Mobil của Đan Mạch. Theo khái niệm “mạng đối tác” của Vodafone, các nhà mạng địa phương sẽ được quyền khai thác các dịch vụ quốc tế của Vodafone trên thị trường nội địa nhưng Vodafone không cần phải đầu tư tiền bạc hay công nghệ vào đó. Đổi lại, nhà mạng địa phương sẽ phải sử dụng thương hiệu của Vodafone bên cạnh thương hiệu của mình, ví dụ TDC Mobil-Vodafone…
Vodafone ở châu Á – Thái Bình Dương
Ngay từ đầu những năm 90, Vodafone đã cam kết trở thành một mạng di động toàn cầu khi tuyên bố sẽ bước chân vào thị trường châu Á – Thái Bình Dương. Tháng 10/1993, Vodafone trình làng mạng di động của riêng mình: Vodafone Australi tại Australia. Tháng 7/1994, Vodafone tại quốc đảo Fiji cũng chính thức “lên sóng”.
Tháng 11/1998, Vodafone mua lại mạng BellSouth và đổi tên thành Vodafone New Zealand. Ngày 1/10/2003, J-Phone (mạng di động Nhật Bản mà Vodafone mua lại từ năm 2002) cũng được đổi tên để trở thành Vodafone Nhật Bản còn dịch vụ truy cập Internet di động J-Sky trở thành Vodafone Live. Tháng 12/2004, Vodafone ký hợp đồng trở thành mạng đối tác với SmarTone của Hong Kong và thương hiệu SmarTone-Vodafone được ra đời kể từ tháng 4/2005.
Ngày 28/10/2005, Vodafone mua 10% cổ phần của Bharti Televentures, hãng đang nắm quyền điều hành nhà mạng di động lớn nhất Ấn Độ, AirTel. Sau khi đặt chân lên Ấn Độ, lần lượt các quốc gia châu Á khác như Indonesia, Malaysia và Sri Lanka cũng đã gia nhập “gia đình nhà Vodafone” thông qua các hợp đồng mạng đối tác.
Cay đắng ở Mỹ
“Mặt trời không bao giờ lặn với Vodafone” nhưng khi các “sếp” của Vodafone sang Mỹ, di động của họ hoàn toàn mất sóng. Đó là nỗi đau và có thể coi là thất bại lớn nhất của Vodafone trên bước đường chinh phục thế giới của mình.
Vodafone đã bước chân vào thị trường Mỹ từ khá sớm. Tháng 6/1999, Vodafone sáp nhập bộ phận dịch vụ di động của mình tại thị trường này với hãng viễn thông AirTouch Communications và đổi tên thành Vodafone Airtouch. Tháng 9/1999, Vodafone Airtouch quyết định thành lập một liên doanh trị giá 70 tỷ USD với tập đoàn viễn thông và cho ra đời hãng di động Verizon Communications kể từ tháng 4/2000.
Tuy nhiên, cái tên Vodafone đã biến mất không lâu sau đó trên đất Mỹ sau khi Bell Atlantic sáp nhập với GTE kể từ ngày 30/6/2000 để chiếm phần lớn số cổ phần trong liên doanh. Do chỉ nắm số cổ phần thiểu số (45%), thương hiệu của Vodafone đã không được sử dụng và “đau đớn” hơn nữa là Verizon quyết định bỏ qua công nghệ GSM của Vodafone để sử dụng công nghệ CDMA trong việc xây dựng hạ tầng mạng của mình.
Liên doanh này của Vodafone vẫn tiếp tục tồn tại và mang về nguồn lợi nhuận khoảng 20 tỷ USD mỗi năm nhưng điều đó không làm các lãnh đạo của Vodafone hài lòng vì nó hoàn toàn không đi theo tham vọng thống trị toàn cầu của họ.
Từ hoàn cảnh này, một điều khoản đặc biệt trong hợp đồng liên doanh đã ra đời dưới cái tên: Sự lựa chọn bom nguyên tử. Tháng 7/2003, lần đầu tiên điều khoản “bom nguyên tử” có hiệu lực nhưng với một sự thay đổi: Số tiền Verizon phải thanh toán cho Vodafone không còn là 10 tỷ USD nữa mà phụ thuộc vào sự định giá của một bên trung lập. Tuy “cơm chẳng lành, canh không ngọt” nhưng cả 2 bên vẫn nhất định “tiếp tục chung sống” và điều khoản đó chưa một lần được thực hiện bất chấp mỗi năm được mở lại 1 lần trong khoảng 60 ngày.
Vẫn hiện diện ở Mỹ nhưng thương hiệu của Vodafone không được gắn với bất kỳ sản phẩm nào trong liên doanh nhưng quan trọng hơn cả là công nghệ và khách hàng của Vodafone tại 31 quốc gia khác không thể chia sẻ với những dịch vụ của Verizon tại Mỹ do khác biệt về công nghệ. Đã không ít quan chức lãnh đạo của Vodafone cảm thấy bức bối mỗi khi sang công tác tại Mỹ vì điện thoại di động của họ mất sóng hoàn toàn.
“Sa lầy” với thương vụ Verizon, Vodafone đã dần dần đánh mất thị trường Mỹ vào tay đối thủ khó chịu nhất của họ - hãng di động Đức T-Mobile.
Thất bại của Vodafone ở thị trường Mỹ còn được “tô điểm” bằng những thương vụ thâu tóm hụt của họ tại đây. Năm 2004, AT&T Wireless được rao bán và Vodafone đã nhanh chóng chộp cơ hội này với ý định sau khi thành công sẽ ngay lập tức bán hết số cổ phần tại Verizon để đầu tư sang AT&T. Nhưng Cingular Wireless (một liên doanh giữa SBC Communications và BellSouth) đã “hớt tay trên” của Vodafone bằng một mức giá cao hơn hẳn.
Không chỉ mất AT&T, thậm chí trong thương vụ Nextel, Vodafone cũng không thể chiến thắng được Sprit và đành ngậm ngùi ngồi nhìn “giấc mơ Mỹ” trôi ngày càng xa.
Đầu năm 2006, Verizon một lần nữa đề nghị được mua lại toàn bộ 45% cổ phần của Vodafone trong liên doanh Verizon Wireless nhưng Vodafone đã trả lời rằng: Nếu có thể, họ cũng muốn mua cả 55% cổ phần của Verizon để toàn quyền điều hành mạng di động lớn nhất nước Mỹ này.
Theo ICTnews
Đọc toàn bộ bài viết trên báo Bưu điện Việt Nam số tháng 1/2010.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét